Thủy đậu là
bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus thuộc họ Herpesviridae có tên khoa học là
Varicella Zoster (VZV). Bất cứ ai cũng có khả năng nhiễm virus gây bệnh thủy đậu,
đặc biệt là trẻ em. Đối với người lớn, tỷ lệ mắc thủy đậu thấp hơn nhưng vẫn có
nhiều ca biến chứng nặng, thậm chí gây tử vong do không có kiến thức phòng ngừa
và điều trị bệnh.
Bệnh thủy đậu
có thể lây qua đường hô hấp do hít phải những giọt nước bọt, nước mũi của người
bệnh bắn ra khi nói chuyện, ho, hắt hơi, chảy nước mũi …ngoài ra, bệnh có thể
lây qua tiếp xúc với đồ vật, dụng cụ (khăn, cốc, bát, tay vịn cầu thang…) và
lây truyền từ mẹ sang con qua nhau thai và trong khi đẻ.
Thủy đậu là
bệnh lành tính sẽ khỏi sau 1 thời gian phát bệnh. Tuy nhiên, bệnh nào cũng sẽ
có những biến chứng nguy hiểm nếu không có biện pháp chữa trị đúng cách.
Thủy đậu bội
nhiễm là hiện tượng nốt thủy đậu mưng mủ, ngứa, đau và lâu lành. Thủy đậu bội
nhiễm có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm ở phủ tạng đe dọa tính mạng người
bệnh nếu không được điều trị đúng cách và kịp thời.

Ngoài ra, thủy
đậu bội nhiễm còn có thể dẫn đến hoại tử, lở loét da, gây viêm thanh quản, viêm
tai, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết,… Khi những nốt thủy đậu này lặn đi cũng rất
dễ để lại sẹo, khó phục hồi.
Bệnh thủy đậu
có thể để lại những hậu quả:
- Đối với trẻ
em: Đây là đối tượng thường mắc thủy đậu nhất nhiều nhất, chiếm khoảng 90% tỷ lệ
mắc bệnh. Khi mắc tình trạng trẻ phát ban kèm theo sốt, chán ăn, bỏ bú,… do hoại
tử, lở loét da thậm chí biến chứng nhiễm khuẩn máu,… cần cho trẻ hạn chế tiếp
xúc với người khác, không đi vườn trẻ, nghỉ học… vì nguy cơ lây bệnh cho người
xung quanh. Một thành viên trong gia đình mắc thủy đậu có thể lây bệnh cho những
người còn lại trong gia đình nếu chưa có miễn dịch và khả năng lây bệnh đã xuất
hiện từ trước lúc trẻ phát ban da.
- Đối với
người trẻ: Đối tượng này có miễn dịch khá tốt nên những trường hợp người trẻ mắc
thủy đậu thì bệnh thường nặng hơn so với trẻ em, đặc biệt là biến chứng viêm phổi
thủy đậu. Tuy nhiên vấn đề cần quan tâm nhiều khi người trẻ mắc thủy đậu lại là
vấn đề sẹo xấu do thủy đậu để lại. Thủy đậu thường tạo sẹo lõm sâu, kích thước
khá lớn và chủ yếu nằm ở vùng mặt. Những sẹo này sẽ tồn tại vĩnh viễn gây kém
thẩm mỹ về sau.
- Ở người
già: đây là đối tượng hiếm khi mắc thủy đậu do chủ yếu đã mắc ở giai đoạn trước.
Vậy đối tượng này bị ảnh hưởng gì? Bệnh thủy đậu sau khi lành (hết phát ban)
thì virus không đào thải hoàn toàn ra khỏi cơ thể mà còn tồn lưu một lượng ít
virus ở hạch thần kinh, chính miễn dịch của cơ thể tạo ra sau mắc bệnh sẽ giúp ức
chế hoạt động của lượng virus này.
Cho đến lúc
già, miễn dịch suy yếu, virus này tái hoạt và gây ra bối cảnh mới trên lâm
sàng: bệnh zona. Bệnh zona là một nỗi ám ảnh đối với người bệnh đã từng mắc bệnh này vì triệu chứng đau thần kinh khó chịu và kéo dài dai dẳng. Như vậy nói
chung, mắc thủy đậu từ lúc nhỏ sẽ có nguy cơ bị zona về già.
Khi nốt đậu
bị vỡ hoặc trầy xước, có thể gây viêm tấy, nhiễm khuẩn da gây viêm mủ da, chốc
lở thậm chí gây viêm cầu thận cấp...
Phụ nữ mang
thai: Nhiễm virus VZV trong giai đoạn mang thai có thể ảnh hưởng đến mẹ như
viêm phổi, sinh non… và thai nhi (hội chứng thủy đậu bẩm sinh hoặc thủy đậu sơ
sinh). Trẻ sinh ra có thể có sẹo da, kém phát triển của chi, não, mô mắt… cũng
như mắc thủy đậu lan tỏa dẫn đến tỉ lệ tử vong lên đến 20% trẻ mắc thủy đậu sơ
sinh.
Một số thể
lâm sàng đặc biệt của thủy đậu
- Nhiễm
virus VZV ở phụ nữ có thai:
+ Đối với
thai phụ sẽ có nguy cơ viêm phổi thủy đậu.
+ Đối với
thai nhi: Nếu mẹ bị thủy đậu ở 3 tháng cuối thì con đẻ ra có thể mắc thủy đậu bẩm
sinh (2%). Ngoài ra, trẻ có thể bị co giật, chậm phát triển trí tuệ và viêm
màng mạch võng mạc.
- Nhiễm virus
VZV ở người suy giảm miễn dịch: Bệnh thường nặng gây ra các hệ quả như:
+ Tổn thương
nhiều cơ quan: gan, phổi, thần kinh trung ương.
+ Dễ có biến
chứng (30-50%).
+ Thời gian
hồi phục chậm hơn so với bình thường 3 lần.
+ Tử vong
15-18%.
Lời khuyên
thầy thuốc
Bệnh thủy đậu
có thể mang lại những hậu quả về lâu dài, tuy nhiên, thực tế cho thấy người dân
vẫn còn rất thờ ơ với bệnh cho đến lúc phát bệnh mới nhận thức được tầm quan trọng
của việc dự phòng. Minh chứng rõ ràng là hằng năm các cơ sở y tế vẫn tiếp nhận
rất nhiều trường hợp thủy đậu trẻ em cũng như người trưởng thành đến khám, đặc
biệt có trường hợp đã tử vong.
Hiện đã có
vaccine chống thủy đậu có hiệu quả cao và lâu dài, giúp cơ thể tạo kháng thể chống
lại virus thủy đậu, được áp dụng đối với các đối tượng sau:
- Tất cả trẻ
em từ 12-18 tháng tuổi được tiêm 1 lần.
- Trẻ em từ
19 tháng tuổi đến 13 tuổi chưa từng bị thủy đậu lần nào cũng tiêm 1 lần.
- Trẻ em
trên 13 tuổi và người lớn chưa từng bị thủy đậu lần nào thì nên tiêm 2 lần, nhắc
lại cách nhau từ 4-8 tuần.
Hiệu quả bảo
vệ của vaccine thủy đậu có tác dụng lâu bền. Nếu đã được chủng ngừa vaccine thủy
đậu thì đại đa số từ 80-90% có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng
còn khoảng 10% còn lại là có thể bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường
hợp này cũng chỉ bị nhẹ, với rất ít nốt đậu, khoảng dưới 50 nốt, và thường là
không bị biến chứng.
Thời gian ủ
bệnh của thủy đậu là từ 1-2 tuần sau khi tiếp xúc với bệnh nhân, do đó, nếu một
người chưa được tiêm phòng vaccine thủy đậu mà có tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu,
trong vòng 3 ngày ta có thể tiêm ngừa thì vaccine có thể phát huy tác dụng bảo
vệ ngay sau đó giúp phòng ngừa thủy đậu.
Nguyễn Minh (suckhoedoisong)