Những nội dung cơ bản trong Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá
1. Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, địa phương trong
PCTHTL (Điều 6):
Đưa nội dung phòng, chống tác hại của thuốc lá
vào kế hoạch hoạt động hằng năm, quy định không hút thuốc lá tại nơi làm việc
vào quy chế nội bộ; đưa quy định về việc hạn chế hoặc không hút thuốc lá trong
các đám cưới, đám tang, lễ hội trên địa bàn dân cư vào hương ước; gương mẫu thực
hiện và vận động cơ quan, tổ chức, địa phương thực hiện các quy định của pháp
luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá.
2.
Quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong PCTHTL (Điều 7):
Người dân được
sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá; được yêu cầu người hút
thuốc lá không hút thuốc tại địa điểm có quy định cấm hút thuốc; được vận động,
tuyên truyền người khác không sử dụng thuốc lá, cai nghiện thuốc lá; được yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi hút thuốc lá tại
địa điểm có quy định cấm hút thuốc; được phản ánh hoặc tố cáo cơ quan, người có
thẩm quyền không xử lý hành vi hút thuốc tại địa điểm có quy định cấm hút thuốc.
3. Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định
trong luật (Điều 9):
Sản xuất, mua
bán, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển thuốc lá giả, sản phẩm được thiết kế có
hình thức hoặc kiểu dáng như bao, gói hoặc điếu thuốc lá; mua bán, tàng trữ, vận
chuyển nguyên liệu thuốc lá, thuốc lá nhập lậu; quảng cáo, khuyến mại thuốc lá;
tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi hình thức; tài trợ của tổ chức, cá nhân kinh doanh thuốc
lá, trừ trường hợp tài trợ nhân đạo cho chương trình xóa đói, giảm nghèo;
phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, thảm họa; phòng, chống buôn lậu thuốc lá và
không được thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về việc tài trợ đó;
người chưa đủ 18 tuổi sử dụng, mua, bán thuốc lá; sử dụng người chưa đủ 18 tuổi
mua, bán thuốc lá; bán, cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi; bán thuốc
lá bằng máy bán thuốc lá tự động; hút, bán thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm;
sử dụng hình ảnh thuốc lá trên báo chí xuất bản phẩm dành riêng cho trẻ em; vận
động, ép buộc người khác sử dụng thuốc lá.
4.
Quy định nghĩa vụ của người hút thuốc lá (Điều 13):
Không hút thuốc
tại địa điểm có quy định cấm hút thuốc; không hút thuốc lá trong nhà khi có trẻ
em, phụ nữ mang thai, người bệnh, người cao tuổi; giữ vệ sinh chung, bỏ tàn, mẩu
thuốc lá đúng nơi quy định khi hút thuốc lá tại những địa điểm được phép hút
thuốc lá.
5.
Quy định quyền và trách nhiệm của người đứng đầu, người quản lý địa điểm cấm
hút thuốc lá (Điều 14).
Có quyền buộc
người vi phạm chấm dứt việc hút thuốc lá tại địa điểm cấm hút thuốc lá; xử phạt
vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; yêu cầu người vi phạm quy định
cấm hút thuốc lá ra khỏi cơ sở của mình; từ chối tiếp nhận hoặc cung cấp dịch vụ
cho người vi phạm quy định cấm hút thuốc lá nếu người đó tiếp tục vi phạm sau
khi đã được nhắc nhở. Có trách nhiệm tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc mọi người thực hiện đúng quy định về cấm hút thuốc lá tại địa điểm thuộc
quyền quản lý, điều hành; treo biển có chữ hoặc biểu tượng cấm hút thuốc lá tại
địa điểm cấm hút thuốc lá.
6.
Quy định về việc bán thuốc lá (Điều 25):
Không được bán thuốc lá phía ngoài cổng nhà trẻ,
trường mẫu giáo, trường tiểu học, THCS, THPT, viện nghiên cứu y học, bệnh viện,
nhà hộ sinh, trung tâm y tế dự phòng, trạm y tế xã, phường, thị trấn trong phạm
vi 100 mét tính từ ranh giới khuôn viên gần nhất của cơ sở đó.
7. Xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống tác
hại của thuốc lá (Điều 31)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật; cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng, chống tác hại của thuốc lá được thực hiện theo quy định của
pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Có thể nói, Luật PCTHTL được Quốc hội ban hành
đảm bảo tính khoa học, tính pháp lý, phù hợp với thực tiễn và phù hợp với Công
ước khung về Kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế thế giới. Luật Phòng, chống
tác hại của thuốc lá đã thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
PCTHTL, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác PCTHTL trong giai đoạn hiện
nay, góp phần hạn chế bệnh tật liên quan đến hút thuốc lá. Chúng ta tin tưởng rằng,
Luật PCTHTL đã và đang đi vào thực tiễn cuộc sống, được người dân đồng tình ủng
hộ và ngày càng góp phần đáng kể cho công tác bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân
dân.
Nguyễn Minh tổng hợp