Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đánh giá hiệu quả phương pháp hút đờm kín trong chăm sóc bệnh nhân thở máy tại khoa Điều trị tích cưc – chống độc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình
Đánh giá hiệu quả của phương pháp hút đờm kín so với hút đờm hở trong chăm sóc bệnh nhân thở máy.

I. Tóm tắt

1. Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của phương pháp hút đờm kín so với hút đờm hở trong chăm sóc bệnh nhân thở máy.

2. Phương pháp: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng trên 60 người bệnh phân bố đều làm 2 nhóm tại khoa điều trị tích cực – chống độc, bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình từ từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 10 năm 2013

3. Kết quả: việc sử dụng ống hút đờm kín có hiệu quả cao trong việc giảm tỷ lệ nhiễm các loại vi khuẩn bệnh viện với những bệnh nhân có đặt nội khí quản (13,3% ở nhóm hút đờm kín và 40% ở nhóm hút đờm hở) (p<0,05). Từ đó làm giảm được số lần hút đờm/ ngày, thời gian sử dụng kháng sinh, thời gian nằm tại khoa ĐTTC-CĐ, góp phần hạn chế được tác dụng phụ của thao tác hút đờm nội khí quản là giảm thời gian spo2 trở về bình thường, giảm thời gian một lần hút đờm, số lần hút đờm trong ngày.

4. Kết luận: nên sử dụng ống hút đờm kín cho những bệnh nhân có đặt nội khí quản, mở khí quản. Tuy nhiên cần có một nghiên cứu tiếp theo đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng ống hút đờm kín để góp phần ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn.

II. Đặt vấn đề

Viêm phổi bệnh viện có liên quan tới thở máy chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhiễm khuẩn bệnh viện theo các nghiên cứu trong nước. Theo điều tra năm 2005 của Bộ y tế trên 19 bệnh viện toàn quốc thì viêm phổi bệnh viện chiếm 55,4% trong các nhiễm khuẩn bệnh viện. Một nghiên cứu của tác giả Trần Thị Hồng Nga về thực trạng nhiễm trùng bệnh viện tại khoa ĐTTC – CĐ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2011 cho thấy có 60,2% bệnh nhân đặt nội khí quản, mở khí quản, thở máy sau 48h và 72h đã có vi khuẩn gây viêm phổi chủng gram (-), gram (+). Các loại vi khuẩn gây NTBV thu thập được bao gồm đầy đủ các chủng loại vi khuẩn gram(-), gram(+), tụ cầu vàng(S.aureus), liên cầu, trực khuẩn mủ xanh, Klbsiela, E.Coli, nấm Candida gây viêm phổi do thở máy và nhiễm trùng tiết niệu, các vi khuẩn này đã kháng hầu hết các loại kháng sinh gây khó khăn cho việc điều trị và tăng chí phí cho người bệnh. Các biện pháp dự phòng viêm phổi bệnh viện như làm giảm hít sặc của bệnh nhân, ngăn ngừa nhiễm trùng chéo từ tay nhân viên y tế, khử khuẩn và tiệt khuẩn đúng cách các dụng cụ hô hấp, giáo dục cho nhân viên y tế và bệnh nhân cho thấy góp phần làm giảm tỷ lệ viêm phổi bệnh viện. Một trong những khuyến cáo trong những năm gần đây là sử dụng ống hút đờm kín trên bệnh nhân thở máy có thể làm giảm nhiễm khuẩn bệnh viện liên quan tới thở máy so với hút đờm hở như đang thực hiện.

Ống hút đờm kín là ống hút được đặt lưu cùng với ống nội khí quản và khi hút đờm không cần phải tháo máy thở ra để hút như phương pháp hút đờm hở đang được sử dụng. Lý do để ống hút đờm kín có hiệu quả là bệnh nhân được hút đờm trong môi trường kín, giảm được nguy cơ lây truyền chéo trong thực hành của nhân viên y tế. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh ống hút đờm kín có hiệu quả hơn hút đờm hở trong phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Anh Thư khi “so sánh ngẫu nhiên giữa ống hút đờm kín và ống hút đờm hở trên bệnh nhân thở máy” tại bệnh viện Chợ Rẫy thì: tỷ lệ viêm phổi bệnh viện (VPBV) ở nhóm dùng ống hút đờm kín giảm 50% có ý nghĩa thống kê so với nhóm dùng ống hút đờm hở, tỷ lệ tử vong ở nhóm hút đờm kín giảm 33,4% và thời gian nằm ở khoa săn sóc đặc biệt giảm đáng kể so với nhóm hút đờm hở.

Ở Việt Nam có rất ít các nghiên cứu về vấn đề này. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: đánh giá hiệu quả của phương pháp hút đờm kín so với hút đờm hở trong chăm sóc bệnh nhân thở máy tại khoa điều trị tích cực bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình.

III. Phương pháp nghiên cứu

1. Đối tượng nghiên cứu

- Những bệnh nhân suy hô hấp phải thở máy xâm nhập nằm tại khoa điều trị tích cực – chống độc.

- Tiêu chuẩn loại trừ:

+ Bệnh nhân được đặt nội khí quản ở tuyến dưới.

+ Bệnh nhân nằm lưu ở khoa dưới 48h hoặc tiên lượng tử vong trong 48h.

+ Bệnh nhân có kết quả cấy dich nội khí quản dương tính trước khi nghiên cứu.

+ Bệnh nhân từ chối nghiên cứu.

Các chỉ số nghiên cứu

- Yếu tố nhân khẩu học: tuổi, giới.

- Yếu tố chuyên môn:

+ Kết quả cấy dịch nội khí quản.

+ Thời gian lưu nội khí quản, hút đờm, thở máy, sử dụng kháng sinh, nằm tại khoa điều trị tích cực- chống độc.

+ Thời gian spo2 trở về bình thường.

2. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng.

Phương pháp chọn mẫu: chọn ngẫu nhiên xen kẽ bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào 2 nhóm:

+ Nhóm 1: Những bệnh nhân vào khoa có số hồ sơ bệnh án là số chẵn được hút bằng phương pháp hút đờm kín (sử dụng ống hút đờm kín, để lưu ống).

+ Nhóm 2: : Những bệnh nhân vào khoa có số hồ sơ bệnh án là số lẻ được hút bằng  phương pháp hút đờm hở (sử dụng ống hút đờm một lần).

          Cả 2 nhóm được hút cùng một loại máy hút với cùng áp lực.

- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 10 năm 2013.

- Địa điểm nghiên cứu: tại khoa điều trị tích cực- chống độc bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình.

3. Xử lý số liệu

Xử lý số liệu thu thập được trên phần mềm SPSS 16.0

IV. Kết quả nghiên cứu

          Tổng số bệnh nhân nghiên cứu là 60 ca, trong đó 30 ca sử dụng phương pháp hút đờm kín, 30 ca sử dụng phương pháp hút đờm hở.

          Đặc điểm đối tượng nghiên cứu:

Bảng 1: Phân bố đối tượng  theo giới

Giới

N

%

Nam

43

71,7

Nữ

17

28,3

Tổng

60

100

 
Kết quả cấy dịch nội khí quản ở 2 nhóm.

          Tỷ lệ dương tính (nhiễm vi khuẩn) ở nhóm hút đờm kín là 13,3% giảm đáng kể so với nhóm hút đờm hở 40%. Kiểm định khi-bình phương ( Chi-Square tests) được sử dụng để kiểm tra sự liên quan về kết quả giữa hai nhóm. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm vi khuẩn bệnh viện ở hai nhóm là khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05). (Bảng 2 + Biểu đồ 2)

Bảng 2: Kết quả cấy dịch nội khí quản ở 2 nhóm.

Kết quả

Hút đờm kín

Hút đờm hở

P

N=30

%

N=30

%

0,039

Dương tính

4

13,3

12

40

Âm tính

26

86,7

18

60

So sánh các thông số theo dõi ở 2 nhóm.

          Sự khác nhau về một số thông số theo dõi ở 2 nhóm được phân tích bằng Independent – Samples T test (giá trị trung bình của 2 mẫu độc lập), kết quả thấy rằng: các thông số về thời gian lưu nội khí quản, thời gian thở máy giữa 2 nhóm là khác nhau. Tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Thời gian 1 lần hút đờm, thời gian sử dụng kháng sinh, số lần hút đờm/ ngày, thời gian spo2 trở về bình thường trong một lần hút, thời gian nằm tại khoa ĐTTC – CĐ giữa 2 nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05). (Bảng 3)

Bảng 3: Kết quả so sánh một số thông số theo dõi ở 2 nhóm:

Các thông số theo dõi

Đơn vị

Hút đờm kín

Hút đờm hở

P

Chỉ số

Độ lệch chuẩn

Chỉ số

Độ lệch chuẩn

Thời gian 1 lần hút đờm

phút

1,24

0,37

1,83

0,45

0,00

Thời gian lưu nội khí quản

ngày

6,35

2,28

8,37

4,4

0,078

Thời gian thở máy

ngày

6,63

4,8

8,05

(4,5

0,3

Thời gian TB spo2 trở về bình thường trong 1 lần hút

phút

1,0

0,3

1,7

0,5

0,00

Số lần hút đờm trung bình/ ngày

lần

6,7

1,1

8,1

1,1

0,00

Thời gian TB sử dụng kháng sinh

ngày

11,12

5,63

15,22

4,86

0,018

Thời gian nằm tại khoa ĐTTC-CĐ

ngày

10,0

4,9

13,5

6,0

0,03

Bàn luận

Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

          Trong thời gian nghiên cứu để đảm bảo tính tự nguyện và phù hợp với các tiêu chuẩn nghiên cứu vì vậy có 60 bệnh nhân tham gia, chia đều cho hai nhóm. Tuổi và giới tính của bệnh nhân không liên quan đến kết quả về các yếu tố chuyên môn của nghiên cứu (p>0,05).

Kết quả cấy dịch nội khí quản ở hai nhóm

          Kết quả cấy dịch nội khí quản dương tính ở nhóm hút đờm kín là 4 trường hợp (13,3%) ít hơn đáng kể so với hút đờm hở 12 trường hợp (40%). Kết quả này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các loại vi khuẩn bị nhiễm chủ yếu là: Acinetobacter, Klebsiella, trực khuẩn mủ xanh, nhóm vi khuẩn đường ruột: E coli, Enterobacter. Nhiều loại vi khuẩn có tính đa kháng như: Acinetobacter, trực khuẩn mủ xanh làm bệnh nặng lên và việc dùng kháng sinh điều trị rất phức tạp, cần nhiều loại phối hợp, đòi hỏi kháng sinh thế hệ cao gây tăng chi phí điều trị cho người bệnh. Kết quả này phù hợp với kết quả của nhóm nghiên cứu của tác giả Lê Anh Thư – bệnh viện Chợ Rẫy TP HCM, tỷ lệ viêm phổi bệnh viện ở nhóm hút đờm kín là 13,3%, nhóm hút đờm hở là 26,5%.

Kết quả các thông số theo dõi ở 2 nhóm

          Thời gian đặt nội khí quản và thời gian thở máy ở 2 nhóm có sự khác nhau. Tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng phù hợp với thực tế lâm sàng do còn phụ thuộc vào tình trạng bệnh của bệnh nhân.

 Trong quá trình hút đờm thì thời gian 1 lần hút đờm của nhóm hút đờm kín ít hơn so với nhóm hút đờm hở. Sau khi hút đờm, thời gian trung bình spo2 trở về bình thường ở nhóm hút đờm kín là 1 (0,3) phút ít hơn so với nhóm hút đờm hở là 1,7 (0,5) phút. Cả hai sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sở dĩ có kết quả này là do trong khi hút đờm sử dụng ống hút kín máy thở sẽ không bị tháo rời khỏi ống nội khí quản. Vì vậy thể tích thở luôn được đảm bảo lưu thông liên tục. Theo tác giả Choong K và cộng sự, sử dụng ống hút đờm hở sẽ làm giảm thể tích phổi trong quá trình hút do ngắt ống nội khí quản khỏi máy thở nên không duy trì được PEEP. Vì vậy, hậu quả làm giảm oxy máu và rối loạn huyết động, đặc biệt là với các bệnh nhân có bệnh phổi nặng đòi hỏi thở máy với PEEP cao. Số lần hút đờm trung bình/ ngày ở nhóm hút đờm kín là 6,7 (1,1) ngày ít hơn so với nhóm hút đờm hở là 8,1 (1,1) ngày. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê(p<0,05). Điều này cũng làm giảm tải một phần khối lượng công việc của điều dưỡng trong quá trình chăm sóc người bệnh. Thời gian trung bình sử dụng kháng sinh và thời gian nằm tại khoa ĐTTC-CĐ ở nhóm hút đờm kín ít hơn so với nhóm hút đờm hở (p<0,05). Điều này góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí điều trị cho người bệnh.

Kết luận

 Qua nghiên cứu chúng tôi thấy việc sử dụng ống hút đờm kín có hiệu quả cao trong việc giảm tỷ lệ nhiễm các loại vi khuẩn bệnh viện với những bệnh nhân có đặt nội khí quản. Từ đó làm giảm được số lần hút đờm/ ngày, thời gian sử dụng kháng sinh, thời gian nằm tại khoa ĐTTC-CĐ,góp phần hạn chế được tác dụng phụ của thao tác hút đờm nội khí quản là giảm thời gian spo2 trở về bình thường. Khi sử dụng ống hút đờm kín thì thời gian một lần hút đờm, số lần hút đờm trong ngày giảm. Vì vậy góp phần vào giảm khối lượng công việc cho điều dưỡng viên.

Khuyến nghị

Với mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc, điều trị bệnh nhân, giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện ở những bệnh nhân có đặt nội khí quản, mở khí quản, chúng tôi khuyến nghị nên sử dụng ống hút đờm kín cho những bệnh nhân này. Tuy nhiên cần có một nghiên cứu tiếp theo đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng ống hút đờm kín để góp phần ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Trần Thị Hồng Nga (2011), “Thực trạng nhiễm trùng bệnh viện tại ĐTTC – CĐ bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình”, Đề tài nghiên cứu khoa học điều dưỡng bệnh viện đa khoa Ninh Bình, tr. 57-65.

2.      Lê Thị Anh Thư (2011), “So sánh ngẫu nhiên giữa ống hút đờm kín và ống hút đờm hở trên bệnh nhân thở máy tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Y học thực hành 771 (6), tr. 12-13.

3.     A. Topeli, A. Harmanci, Y. Cetinkaya, S. Akdeniz, S. Unal (2011), “Comparison of the effect of closed versus open endotracheal suction systems on the development of ventilator-associated pneumonia”Journal of Hospital Infection, 58(1), Pages 14-19.

4.     David D, Samuel P, David T, Keshava SN, Irodi A, Peter JV (2011), “An open-labelled randomized controlled trial comparing costs and clinical outcomes of open endotracheal suctioning with closed endotracheal suctioning in mechanically ventilated medical intensive care patients”,  Journal of Critical Care  26(5), Pages 482-488.

5.     Choong K et al. Comparison of  loss in lung volume with open versus in-line catheter endotracheal suctioning. Pediatr Crit Care Med. 2003 Jan;4(1):69-73.

Tác giả: CNĐD. Đinh Ngọc Toàn và cộng sự

 

 

 

 

 

 

 

Đăng bởi: Nguyễn Lan Hươn

  • Từ khóa :