Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bại não ở trẻ nhỏ
Tại Bệnh viện Phục hồi chức năng tỉnh
Ninh Bình đã và đang điều trị hiệu quả cho các cháu Bại não với các phương pháp: Điện trị liệu,
Vận động trị liệu, Hoạt động trị liệu, Ngôn ngữ trị liệu, châm cứu,... Nhiều trẻ
có kết quả điều trị khá tốt. Qua đó giúp trẻ sinh hoạt độc lập, tự phục vụ bản
thân, sớm hoà nhập cộng đồng.
Bác sỹ Bác sỹ
Bùi Đức Hoàn - Phó Giám đốc Bệnh viên Phục
hồi chức năng tỉnh cho biết:
Nguyên nhân của bệnh bại não
Bại não không
phải là một rối loạn do một nguyên nhân duy nhất. Đây là một nhóm c ác rối loạn
kiểm soát vận động giống nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau.
Bại não bẩm
sinh do các tổn thương não xảy ra khi thai nhi còn nằm trong tử cung hoặc trong
khi sinh (chiếm 70%).
Các tổn thương
não xảy ra ở trẻ trước 5 tuổi, sau các nhiễm khuẩn thần kinh hay chấn thương sọ
não.
Các nguyên nhân gây bại não:
- Nhau thai bất
thường không cung cấp đủ oxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi.
- Bất đồng
nhóm máu giữa mẹ và con.
- Mẹ mắc các bệnh
truyền nhiễm trong thai kỳ đầu.
- Trẻ đẻ thiếu
tháng hoặc đẻ thấp cân.
- Thiếu oxy
kéo dài trong khi sinh hoặc vàng da nặng sau sinh.
Hầu hết các trẻ
bại não được sinh non tháng hoặc thiếu oxy trong lúc sinh
Dấu hiệu sớm của bại não
Các dấu hiệu sớm
của bại não thường khởi đầu trước 18 tháng tuổi. Cha mẹ là người đầu tiên cho rằng
trẻ không phát triển được kỹ năng vận động bình thường. Trẻ chậm lẫy, chậm bò,
chậm biết đi so với mốc phát triển bình thường.
Trẻ bị giảm
trương lực cơ: chi mềm nhũn, buông thõng, hoặc tăng trương lực cơ: trẻ cứng đờ
hoặc vận động cứng nhắc.
Dấu hiệu lâm sàng
Thể co cứng
(chiếm 70 - 80% các trường hợp): các cơ cứng nhắc và co cứng thường xuyên. Co cứng
2 chân hoặc nửa người, hay gặp nửa người trái.
Thể loạn
trương lực (chiếm 10 - 20% các trường hợp): có những vận động bất thường ở 2
chân và 2 tay. Mặt nhăn nhó, nói khó, chảy nước dãi (là vận động bất thường ở mặt,
lưỡi và cơ phát âm, tuy nhiên ít gặp). Các vận động bất thường này mất khi đi
ngủ. Ở trẻ lớn biểu hiện viết chậm, không kiểm soát được động tác.
Thể thất điều
(chiếm 5 - 10% các trường hợp): bước đi khó khăn, loạng choạng, khó thực hiện động
tác chính xác. Run tay, run chân.
Tùy theo vùng
não bị tổn thương mà trên lâm sàng biểu hiện các triệu chứng đa dạng: co cứng gấp,
nuốt khó, nói khó, rối loạn tư thế hoặc vận động. Có thể rối loạn chức năng các
giác quan: điếc, mất ngửi, giảm thị lực. Đôi khi: co giật, chậm phát triển tâm thần,
bất thường về hô hấp, rối loạn đái ỉa. mất khả năng học tập.
Vấn đề điều trị
Chủ yếu là quá
trình chăm sóc trẻ, giúp trẻ phát triển tối đa. Điều này cần bắt đầu từ rất sớm
ngay khi phát hiện bệnh của trẻ.
Trẻ cần được
chăm sóc phối hợp với sự kết hợp của bác sĩ điều trị, nhân viên vật lý trị liệu,
giáo viên, nhân viên công tác xã hội.
Điều trị bằng
nội khoa, phẫu thuật và phục hồi chức năng giúp cải thiện sự phối hợp động tác
cơ và dây thần kinh, phòng ngừa hoặc làm giảm tối thiểu các rối loạn chức năng.
Ở những trẻ bại
não trưởng thành: giáo dục, tư vấn, các chương trình giải trí, được đến trường,
cơ hội việc làm, hòa nhập cộng đồng, nhu cầu thiết yếu như đối với người trưởng
thành bình thường, xây dựng gia đình và cuộc sống riêng.
Bác sỹ
Bùi Đức Hoàn cũng Khuyến cáo: Có
nhiều biện pháp phòng bệnh bại não trước sinh. Bà mẹ cần được theo dõi và quản
lý thai nghén chặt chẽ; xét nghiệm yếu tố Rh, dự phòng hậu quả của bất đồng
nhóm máu. Nếu có bất đồng nhóm máu thì trẻ phải được thay máu hoặc điều trị
vàng da ngay từ những ngày đầu sau sinh. Các bà mẹ cần được phát hiện và điều
trị các bệnh mạn tính, các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục - tiết niệu, tiêm
phòng bệnh Rubeol trước khi mang thai. Tránh tiếp xúc tia phóng xạ, dùng thuốc
và các chất kích thích trong quá trình thai nghén. Người mẹ phải khỏe mạnh trước
lúc thụ thai, chăm sóc trước sinh tốt, chế độ dinh dưỡng đầy đủ để tránh đẻ non
tháng, thấp cân. Bảo vệ trẻ không bị các bệnh nhiễm trùng và chấn thương sọ
não.
Nguyễn Minh